Hồ Chí Minh vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam
(VUFO) Hồ Chí Minh cho rằng cách mạng Việt Nam giành được những thắng lợi to lớn có nhiều nguyên nhân, một trong những nhân tố quan trọng “chính là do cố gắng vận dụng những lời dạy của Lênin, nhưng vận dụng một cách sáng tạo, phù hợp với thực tế Việt Nam”
Việt Nam là một thuộc địa, trước hết phải giành được độc lập dân tộc
Dưới ánh sáng chủ nghĩa Lênin, Hồ Chí Minh đúc kết được nhiều điều quan trọng, trong đó đáng chú ý: Thứ nhất, khi phân chia các thứ cách mạng, nếu lấy tư tưởng làm tiêu chí thì có ba loại: tư bản cách mạng, dân tộc cách mạng, giai cấp cách mạng; nếu lấy mục tiêu của từng dân tộc và nhân loại thì có hai loại: dân tộc cách mạng và thế giới cách mạng. Thứ hai, lý luận do phân tích kinh nghiệm cách mạng ở các nước và trong nước ta từ trước đến nay kết luận thành. Vì vậy, “Học chủ nghĩa Mác-Lênin không phải nhắc như con vẹt “Vô sản thế giới liên hiệp lại” mà phải thống nhất chủ nghĩa Mác-Lênin với thực tiễn cách mạng Việt Nam. Nói đến chủ nghĩa Mác-Lênin ở Việt Nam là nói đến chủ trương chính sách của Đảng... Chủ nghĩa Mác-Lênin không phải ở đâu người ta cũng làm cộng sản, cũng làm Xôviết”2. Nếu thấy người ta làm thế nào mình cũng bắt chước một mực làm theo thế ấy, thì đó vừa là lý luận suông, vô ích, vừa chưa biết khéo lợi dụng kinh nghiệm: “nghe người ta nói giai cấp đấu tranh, mình cũng ra khẩu hiệu giai cấp đấu tranh, mà không xét hoàn cảnh nước mình như thế nào để làm cho đúng”3.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập_ảnh: tư liệu
Những nhận thức nêu trên là hết sức quan trọng giúp chúng ta hiểu vì sao đối với dân tộc Việt Nam thì trước hết phải giành cho kỳ được độc lập dân tộc; là làm dân tộc cách mạng chứ không phải giai cấp cách mạng như Cách mạng Pháp năm 1789 hay Cách mạng Nga năm 1917. Tư bản cách mạng thì phải có tư bản ở thành phố (tư bản mới) và tư bản ở hương thôn (địa chủ). Việt Nam chưa đủ những điều kiện này. Đó là câu chuyện của Pháp năm 1789, Mỹ năm 1776, Nhật năm 1864. Giai cấp cách mạng nổ ra khi giai cấp công nhân và nông dân bị áp bức không chịu nổi, đoàn kết đánh đuổi giai cấp áp bức mình (tư bản). Đó là câu chuyện của cách mạng Nga năm 1917. Dân tộc cách mạng là khi “bọn cường quyền này bắt dân tộc kia làm nô lệ, như Pháp với An Nam. Đến khi dân nô lệ ấy không chịu nổi nữa, tỉnh ngộ lên, đoàn kết lại, biết rằng thà chết được tự do hơn sống làm nô lệ, đồng tâm hiệp lực đánh đuổi tụi áp bức mình”4.
Nói cách khác, Hồ Chí Minh khẳng định chúng ta phải làm dân tộc cách mạng là vì mâu thuẫn dân tộc giữa một bên là toàn thể dân tộc Việt Nam sống thân phận nô lệ với một bên là bọn cướp nước là mâu thuẫn vừa cơ bản vừa chủ yếu của xã hội Việt Nam thuộc địa. Giải quyết mâu thuẫn ấy để giành lại độc lập, tự do là nhiệm vụ hàng đầu, không giành được độc lập dân tộc thì không có gì hết.
Hồ Chí Minh chỉ rõ: “hiện nay nọc độc và sức sống của con rắn độc đế quốc chủ nghĩa đang tập trung ở các thuộc địa hơn là ở chính quốc... Các thuộc địa trở thành nền tảng của lực lượng phản cách mạng”5. Cách mạng ở các nước thuộc địa có thể nổ ra và thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc và tác động trở lại thúc đẩy cách mạng chính quốc. CNTB chỉ tan rã hoàn toàn và vĩnh viễn khi nào chúng ta phá bỏ được nền móng của lâu đài ĐQCN. Vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Lênin về mối quan hệ giữa cách mạng thuộc địa và cách mạng ở chính quốc, Hồ Chí Minh đưa ra luận điểm chủ nghĩa đế quốc là “con đỉa hai vòi”, để khẳng định cách mạng ở các nước thuộc địa là một trong những “cái cánh” của cách mạng thế giới. Những luận điểm của Hồ Chí Minh không chỉ là sự vận dụng, phát triển sáng tạo mà còn góp phần bổ sung, phát triển, làm phong phú chủ nghĩa Lênin về cách mạng thuộc địa.
Giáo sư Nhật Bản, Sigô Sibata, viết: “Trước tiên chúng ta phải nhìn thấy rằng những cống hiến của Người đã góp phần đào sâu và phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin đối với các vấn đề dân tộc và thuộc địa... Dạo ấy có rất ít những người mácxít như Cụ Hồ Chí Minh sinh ra ở một nước thuộc địa hay bản thân được trải qua một cuộc sống như ở Việt Nam cũng như ở nhiều thuộc địa khác”6. Ginbe Hanđátsơ viết trên Tạp chí Hành tinh-Hành động, tháng 3-1970: “Sự phân tích về chủ nghĩa thực dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh đến lúc đó vượt hẳn tất cả những gì mà những nhà lý luận mácxít đề cập đến”7. Đồng chí Gớt Hôn, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Mỹ, nói: “Đồng chí Hồ Chí Minh là con người cần thiết xuất hiện đúng lúc, đúng yêu cầu của lịch sử với những tư tưởng và ý kiến đúng. Chính vì vậy mà đồng chí đã làm ra lịch sử”8.
Độc lập dân tộc đi tới chủ nghĩa xã hội
Hồ Chí Minh chỉ rõ giải phóng dân tộc trước hết nhưng theo con đường cách mạng vô sản, tức là độc lập dân tộc, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, tiến lên CNXH. Cách làm này vừa tránh được “vết xe đổ” của con đường phong kiến và tư sản ở Việt Nam vừa không trở thành người bắt chước. Thực chất đây là sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Lênin trong giải quyết mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, độc lập dân tộc và CNXH trong điều kiện cụ thể của nước ta. Kết hợp sáng tạo giữa “quy luật nhất định” và “con đường khác nhau”, Hồ Chí Minh cho thấy có nhiều con đường để đi tới mục tiêu duy nhất là CNXH (cộng sản). Đó là “sự gặp gỡ giữa dân tộc và thời đại”9.
Độc lập dân tộc và CNXH có mối quan hệ biện chứng. “Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”10. Nước độc lập là điều kiện tiên quyết để đi lên CNXH. Còn CNXH là thước đo giá trị của độc lập dân tộc.
Vận dụng, phát triển sáng tạo về Đảng Cộng sản
V.I.Lênin đưa ra quan điểm Đảng Cộng sản ra đời là sự kết hợp CNXH khoa học và phong trào công nhân. Hồ Chí Minh khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Theo Người, “Đảng ta là Đảng của giai cấp, đồng thời cũng là của dân tộc, không thiên tư, thiên vị”11. Sự sáng tạo của Hồ Chí Minh so với chủ nghĩa Lênin không chỉ bổ sung yếu tố phong trào yêu nước vào sự ra đời của Đảng Cộng sản mà còn cho thấy phong trào yêu nước có khả năng kết hợp với phong trào công nhân, vì cả hai phong trào cùng một nhiệm vụ và mục tiêu trước mắt là chống xâm lược, giành độc lập dân tộc. Sự xuất hiện một yếu tố mới là phong trào yêu nước không những không hạ thấp vai trò của CNXH khoa học, ngược lại tỏ rõ rằng ở các nước thuộc địa như Việt Nam, chủ nghĩa Mác-Lênin có một mảnh đất màu mỡ, “lực lượng vật chất” không chỉ là phong trào công nhân mà còn có cả phong trào yêu nước. Ngược lại, phong trào yêu nước phải được tiếp nhận lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin mới thành phong trào yêu nước triệt để. Sáng tạo ở vế “đồng thời là Đảng của dân tộc” ở chỗ: Thứ nhất, cơ sở xã hội của Đảng không chỉ là giai cấp công nhân mà là toàn thể dân tộc. Thứ hai, Đảng không chỉ vì lợi ích của giai cấp công nhân mà vì lợi ích cả dân tộc. Thứ ba, Đảng không chỉ trong tim của người đảng viên đảng cộng sản, mà phải “gần gũi tận trong lòng của mỗi đồng bào ta”12.
Đảng Cộng sản từ trong xã hội mà ra, Hồ Chí Minh rất quan tâm tới xây dựng tư cách của một người cách mạng của một Đảng chân chính cách mạng, đạo đức và văn minh. Từ những chỉ dẫn quan trọng của Lênin phải luôn quan tâm tới lợi ích của giai cấp vô sản, Hồ Chí Minh khẳng định: “Ngoài lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc, thì Đảng không có lợi ích gì khác”13. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần, giữ vững đạo đức cách mạng, “cao nhất là chí công vô tư”14. Người nhấn mạnh: “Hy sinh lợi ích cá nhân, thậm chí hăng hái vui vẻ hy sinh tính mệnh của mình cho Đảng, cho giai cấp, cho dân tộc, cho loài người, đó là nguyên tắc tối cao, đạo đức tối cao của mỗi đảng viên”15.
Liên quan tới tư cách của người cách mạng, theo định hướng của Lênin chống tha hóa quyền lực, Hồ Chí Minh có những chỉ dẫn sớm rất cụ thể về vấn đề này. Ngay sau cách mạng thành công, Người đã chỉ ra “Những người trong các công sở đều có nhiều hoặc ít quyền hành. Nếu không giữ đúng Cần, Kiệm, Liêm, Chính thì dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân”16. Theo Người, cán bộ có quyền phải đặc biệt chú trọng thực hành chữ “liêm”: “Trước nhất là cán bộ các cơ quan, các đoàn thể, cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút, có dịp “dĩ công vi tư”17.
Về quan liêu, nếu Lênin tập trung chỉ ra nguy hại của bệnh này, thì Hồ Chí Minh vạch rõ biểu hiện, tác hại và quan hệ với tham ô, lãng phí. Theo Người, những người và những cơ quan lãnh đạo mắc bệnh quan liêu là “có mắt mà không thấy suốt, có tai mà không nghe thấu, có chế độ mà không giữ đúng, có kỷ luật mà không nắm vững. Kết quả là những người xấu, những cán bộ kém tha hồ tham ô, lãng phí. Thế là bệnh quan liêu đã ấp ủ, dung túng, che chở cho nạn tham ô, lãng phí. Vì vậy, muốn trừ sạch nạn tham ô, lãng phí, thì trước mắt phải tẩy sạch bệnh quan liêu”18.
Vận dụng, phát triển sáng tạo về lực lượng cách mạng
Trong giai đoạn ĐQCN, V.I.Lênin nêu khẩu hiệu “Giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại!”. Hồ Chí Minh nhấn mạnh:
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công”19.
Khẩu hiệu đoàn kết của Hồ Chí Minh chứa đựng ba tầng đoàn kết: đoàn kết trong Đảng, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế và tỷ lệ thuận giữa sức mạnh đoàn kết và khả năng thành công. Người chỉ rõ: “Vì bị áp bức mà sinh ra cách mệnh, cho nên ai mà bị áp bức càng nặng thì lòng cách mệnh càng bền, chí cách mệnh càng quyết”20. Khái niệm “dân tộc cách mệnh” trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh chứa đựng một hàm lượng khoa học, sáng tạo lớn trong việc tổ chức lực lượng cách mạng, chính xác là xây dựng chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc. Toàn thể dân tộc Việt Nam bị áp bức đồng tâm hiệp lực đánh đuổi thực dân Pháp, “thà chết được tự do hơn sống làm nô lệ”. Người cũng luôn khẳng định tinh thần “bốn phương vô sản đều là anh em”.
Vận dụng, phát triển nhận thức lý luận về thời kỳ quá độ
Việt Nam cùng loại hình phương thức quá độ gián tiếp như nước Nga, nhưng với những đặc điểm một nước thuộc địa, tiến trình cách mạng Việt Nam từ giải phóng dân tộc đến dân chủ nhân dân, xây dựng CNXH là sự kế tục một cách mật thiết, đan xen, đồng thời, mặt này trong mặt kia trong cùng một quá trình vận động các mặt kinh tế-xã hội theo định hướng XHCN. Tất nhiên có trọng tâm, ở mỗi bước có mặt nổi lên chi phối, không thể “vượt bỏ giai đoạn”, nhưng cũng không thể “từ từ từng bước”. Đặc điểm đó của chế độ dân chủ nhân dân, đồng thời cũng liên quan đến đặc điểm của thời kỳ quá độ của một thứ cách mạng điển hình. Quá độ lên CNXH ở Việt Nam là như thế và nhất định phải như thế. Chế độ dân chủ nhân dân có thể gọi là “quá độ của quá độ”. Nó không phải là một chặng đường của thời kỳ quá độ, nhưng là một chế độ có tính chất quá độ, ít nhiều làm chức năng của thời kỳ quá độ.
Theo Hồ Chí Minh, “đặc điểm to nhất của ta trong thời kỳ quá độ là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”21. Nói đặc điểm to nhất có thể hiểu là khó khăn, phức tạp nhất, một cuộc chiến đấu khổng lồ. Nói tiến thẳng là theo tinh thần của chủ nghĩa Lênin về con đường phát triển bỏ qua chế độ TBCN trong những điều kiện lịch sử cho phép. Nhưng bỏ qua không có nghĩa là đốt cháy giai đoạn, chủ quan, nóng vội, phiêu lưu làm ẩu, duy ý chí.
Đặc điểm to nhất chứa đựng trong đó mâu thuẫn cơ bản của thời kỳ quá độ ở nước ta là mâu thuẫn giữa một bên là yêu cầu, đòi hỏi tất yếu của CNXH phải có một nền công nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại, văn hóa khoa học tiên tiến với một bên là trình độ thấp kém, lạc hậu do thực dân, phong kiến để lại. Thực tế lạc hậu của xã hội Việt Nam cho thấy thời kỳ quá độ ở nước ta xuất hiện hệ thống mâu thuẫn đan xen, phức tạp, vừa mang tính đối kháng vừa mang tính không đối kháng, xét đến cùng đó là mâu thuẫn giữa con đường XHCN và con đường tự phát TBCN.
Quá độ lên CNXH ở Việt Nam trong điều kiện đồng thời tiến hành hai chiến lược cách mạng, thực hiện hai quy luật trên một ý nghĩa nào đó là “trái ngược” nhau: xóa bỏ và xây dựng. Chúng ta phải vừa cải tạo vừa xây dựng, vừa sản xuất vừa chiến đấu. Điều này chưa có tiền lệ. Theo Giáo sư Nhật Bản, Singô Sibata, “một trong những cống hiến quan trọng của Cụ Hồ Chí Minh và của Đảng Lao động Việt Nam là đã đề ra lý luận về xây dựng chủ nghĩa xã hội trong khi vẫn tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân. Theo tôi được biết, Đảng Lao động Việt Nam là đảng đầu tiên trong các đảng mácxít trên thế giới áp dụng lý luận này”22.
Bổ sung, phát triển đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội
Di sản tư tưởng Hồ Chí Minh cho thấy có hai đặc trưng bản chất của xã hội XHCN ở Việt Nam, đó là đặc trưng kinh tế và đặc trưng văn hóa. Sáng tạo của Hồ Chí Minh là cụ thể hóa quan điểm có ý nghĩa phương pháp luận của V.I.Lênin trong điều kiện cụ thể của một nước nông nghiệp lạc hậu, kinh tế kém phát triển.
Về đặc trưng kinh tế. Theo V.I.Lênin, bản chất của CNXH trước hết phải làm cho mọi người dân sung sướng, ấm no, tức phải đặt yếu tố kinh tế lên hàng đầu. Cách diễn đạt của Hồ Chí Minh cho thấy rõ điều này: “Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải phát triển kinh tế và văn hóa. Vì sao không nói phát triển văn hóa và kinh tế? Tục ngữ ta có câu: Có thực mới vực được đạo; vì thế kinh tế phải đi trước”23. “Nói một cách tóm tắt, mộc mạc, chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm được ấm no và sống một đời hạnh phúc”24.
Về đặc trưng văn hóa. Dân chủ và dân làm chủ là vấn đề cốt tử của cách mạng. Theo Hồ Chí Minh, trong một nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân; bao nhiêu quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân. Người đã làm sáng tỏ quan hệ giữa dân với Đảng, Chính phủ và cán bộ, đảng viên. Nhân dân có quyền kiểm soát đại biểu của mình, còn những người trong bộ máy cách mạng đều được phân công làm đày tớ cho dân. “Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ”25. “Đảng không phải làm quan, sai khiến quần chúng mà phải làm đầy tớ cho quần chúng và phải làm cho ra trò, nếu không quần chúng sẽ đá đít”26.
Hồ Chí Minh bàn nhiều đến mối quan hệ giữa người với người và công bằng, bình đẳng. Công bằng và bình đẳng không hoàn toàn có sự phân biệt rạch ròi, mà thể hiện sự ngang bằng về bổn phận và quyền lợi, cống hiến và hưởng thụ. Người chỉ rõ “chủ nghĩa xã hội là công bằng hợp lý: Làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm thì không được hưởng. Những người già yếu hoặc tàn tật sẽ được Nhà nước giúp đỡ chăm nom”27. Khi bàn về công bằng, Hồ Chí Minh chỉ rõ lòng tin của nhân dân là điều đáng quan tâm nhất: “- Không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng; - Không sợ nghèo, chỉ sợ lòng dân không yên”28.
Khía cạnh “văn minh” trong đặc trưng văn hóa cũng hàm chứa một tư duy sâu sắc. Theo Hồ Chí Minh, trong chế độ chính trị một đảng cầm quyền duy nhất lãnh đạo, muốn xã hội văn minh thì Đảng phải văn minh. Từ văn minh của Đảng lan tỏa ra toàn xã hội. Chính sức mạnh văn minh của Đảng, của dân tộc, mỗi con người và toàn xã hội với hạt nhân là lòng dạ trong sáng, không sa vào chủ nghĩa cá nhân sẽ làm nên thắng lợi của cách mạng.
Những phân tích nêu trên chứng minh, làm rõ khẳng định của Đảng: “Trong khi giải quyết những vấn đề của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã góp phần phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin trên nhiều vấn đề quan trọng, đặc biệt là lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc và tiến lên chủ nghĩa xã hội ở các nước thuộc địa và phụ thuộc
PGS, TS Bùi Đình Phong, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
T.h / hcma.vn